Lịch sử Aqaba

Cổ đại

Di chỉ khảo cổ Tall Hujayrat Al-Ghuzlan

Các hiện vật khai quật được tại Tall Hujayrat Al-GhuzlanTall Al-Magass thuộc Aqaba tiết lộ rằng thành phố đã có người ở từ khoảng năm 4000 TCN, với một nền sản xuất đồ đồng số lượng lớn khá phát triển.[18] Thời kỳ này hầu như không được biết tới do sự thiếu thốn về tư liệu lịch sử.[6] Các nhà khảo cổ học từ Đại học Jordan là những người đã phát hiện ra các di chỉ này, đồng thời tìm thấy một công trình xây dựng nhỏ có các bức tường với các hình vẽ người và động vật, qua đó có thể đoán được đây là công trình dành cho việc tế lễ. Những cư dân tại các di chỉ khảo cổ này đã phát triển một hệ thống tưới tiêu cho các cánh đồng lúa mì và nho. Người ta cũng tìm thấy nồi đất sét các loại được sử dụng trong việc nấu chảy đồng và tạo hình cho công cụ đồng. Các nghiên cứu khoa học tại các địa điểm khảo cổ này cũng khẳng định rằng nơi này từng chịu hai trận động đất, trong đó trận động đất thứ hai phá hủy hoàn toàn nơi này.[19]

Những người cai trị xứ Edom phía nam Biển Chết được cho là đã xây dựng nên cảng đầu tiên ở Aqaba mang tên Elath vào khoảng năm 1500 TCN,[cần dẫn nguồn] biến nơi đây trở thành trung tâm trao đổi buôn bán và sản xuất đồ đồng trong khi những người Phoenicia giúp họ trong lĩnh vực kinh tế hàng hải.

Cổ đại cổ điển

Xem thêm thông tin: Elath, Via Traiana Nova, và Arabia Petraea

Khoảng năm 735 TCN, thành phố bị đế quốc Assyria chinh phục. Do các cuộc chiến tranh diễn ra ở phía đông, các tuyến đường giao thương của Assyria được chuyển về cảng ở Elath. Người Babylon chinh phục Elath vào khoảng năm 600 TCN. Trong thời gian này, Elath chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, với công lớn thuộc về các chính sách của các những nhà cai trị, những người đã nhận ra vị trí hết sức quan trọng của nơi này.

Đế quốc Ba Tư chiếm được thành phố vào năm 539 TCN.[20]

Nhà thờ Aqaba, một trong những nhà thờ Kitô giáo đầu tiên được xây dựng cho mục đích tôn giáo.[21]

Thành phố tiếp tục phát triển và trở thành một trung tâm giao thương lớn khi người Hy Lạp bắt đầu cai trị vào năm 300 TCN. Một sử gia Hy Lạp nhận xét đây là "một trong những thành phố buôn bán lớn nhất thế giới Ả Rập".[20] Người Ai Cập thuộc Hy Lạp gọi thành phố này là Berenice.[22] Vương quốc Nabatea có một lượng lớn cư dân định cư ở phía bắc thành phố. Những người này xây dựng nên đền Al-Khazneh trong thành Petra, và với lượng dân số vượt xa người Hy Lạp, họ dễ dàng chiếm được Elath.[20] Một trong những văn bản cổ nhất bằng chữ Ả Rập được tìm thấy ở Jabal Ram, cách Aqaba 50 kilômét (31 dặm) về phía đông.[23]

Vào năm 64 TCN sau cuộc chinh phục của người La Mã, họ gọi thành phố này là Aela (hay Haila, Aelana, tiếng Hy Lạp là Άιλα Aila).[24]

Cả Petra và Aela chịu ảnh hưởng Nabatea bất chấp sự cai trị của La Mã. Vào thời gian này người ta bắt đầu xây dựng con đường lớn mang tên Via Traiana Nova nối Bostra ở phía nam tới Amman, kết thúc ở Aela, nơi kết nối với một con đường ở phía tây dẫn tới PhilistiaAi Cập. Khoảng năm 106 CN Aela là một trong những cảng chính của La Mã.[25]

Vào thời Eusebius, Aela là nơi đóng quân của binh đoàn Legio X Fretensis chuyển tới từ Jerusalem.[26]

Aela thuộc về Đế quốc Đông La Mã vào năm 300 CN. Vào thời gian này Nhà thờ Aqaba bắt đầu được xây dựng và là một trong những nhà thờ Kitô giáo thực sự đầu tiên trên thế giới.[21] Thành phố trở thành một giáo phận Kitô giáo. Vào năm 325 giám mục Peter của thành phố có mặt trong Công đồng Nicaea I, công đồng đại kết đầu tiên. Beryllus có mặt trong Công đồng Chalcedon năm 451, và Paul có mặt tại một công nghị được triệu tập bởi Thượng phụ Peter của Jerusalem vào năm 536 nhằm chống đối lại Thượng phụ Anthimus của Alexandria, một hội đồng gồm các giám mục các tỉnh thời Hậu kỳ La Mã như Palaestina Prima, Palaestina SecundaPalaestina Tertia.[27][28]

Trung Cổ

Theo sử gia Ibn Ishaq, Muhammad trong Cuộc hành quân tới Tabouk vào năm 630 đã đặt chân tới Aila đồng thời thu thập cống nạp từ nơi này.[29]Khi Aila rơi vào tay Hồi giáo năm 650, khu định cư cổ đại bị phá hủy, trong khi một thành phố mới của người Ả Rập được thành lập bên ngoài bức tường thành dưới sự cai trị của Othman bin Affan được gọi là Ayla (tiếng Ả Rập: آيلة‎).[30]

Nhà địa lý Shams Eddin Muqaddasi nhận xét Ayla nằm ngay cạnh tàn tích của thành phố cổ.[31]

Một góc AylaAyla bên cạnh dãy núi Bắc AqabaPháo đài Aqaba

Từ năm 661 tới năm 750 thành phố phát triển mạnh mẽ tới dưới thời Nhà Omeyyad, và tiếp tục như vậy tới thời Nhà Abbas (750-970) và Nhà Fatimid (970-1116).Ayla nắm bắt tốt vị trí quan trọng của mình trên tuyến đường tới với các loại gia vị Ấn Độ và Ả Rập (nhũ hương, mộc dược), giữa Địa Trung HảiBán đảo Ả Rập.

Thành phố thời trung cổ được khai quật vào năm 1986 bởi một đội khảo cổ thuộc Đại học Chicago. Các hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Khảo cổ học AqabaBảo tàng Khảo cổ học JordanAmman.[cần dẫn nguồn]

Baldwin I của Jerusalem chiếm được thành phố vào năm 1116 mà không gặp phải quá nhiều kháng cự. Trung tâm thành phố được chuyển 500 dọc theo bờ biển về phía nam. Pháo đài Helim của quân thập tự chinh được xây dựng, cũng như Đảo Pharaon (nay thuộc lãnh hải của Ai Cập cách Aqaba 7 kilômét (4 dặm) về phía tây).Thành phố suy tàn vào cuối thế kỷ 12 do các trận động đất và các cuộc càn quét của quân Bedouin và Mamluk.[cần dẫn nguồn]

Ayla thuộc quyền kiểm soát của Vương quốc Jerusalem từ năm 1116 tới 1187. Sau đó nơi đây bị Saladin chiếm.Khu dân cư vào thời điểm này hầu như đã bị phá hủy hoàn toàn, và địa điểm quanh khu vực này lấy theo tên của ngọn đèo gần đó, al-ʿAqaba.Pháo đài cũ được xây dựng, mang tên Pháo đài Aqaba, bởi vua Al-Ashraf Qansuh Al-Ghuri vào đầu thế kỷ 16.Trong bốn thế kỷ tiếp theo, nơi đây chỉ là một làng chài không mấy quan trọng.

Hiện đại

Trong Thế chiến thứ nhất, quân Ottoman buộc phải rút khỏi Aqaba vào năm 1917 sau Trận Aqaba, với chiến thắng thuộc về T. E. Lawrence và các lực lượng Ả Rập của Auda abu TayiSherif Nasir. Việc chiếm được Aqaba cho phép quân Anh tiếp viện cho các cánh quân Ả Rập.[9]

Vào năm 1918, khu vực Aqaba và Ma'an chính thức sáp nhập vào Vương quốc Hejaz. Vào năm 1925, Ibn Saud, vua của Najd, với sự trợ giúp của lực lượng Ikhwan đã sáp nhập thành công Hejaz, tuy nhiên đành phải nhượng lại Ma'an và Aqaba cho xứ bảo hộ Tiểu vương quốc Ngoại Jordan của Anh.[32]

Vào năm 1965, Vua Hussein, thông qua một thỏa thuận trao đổi với Ả Rập Xê Út, trao 6.000 kilômét vuông (2.317 dặm vuông Anh) đất hoang mạc ở các lãnh thổ Jordan để đổi lấy các lãnh thổ khác, trong đó có 12 kilômét (7 dặm) bờ biển phía nam Aqaba, bao gồm cả rạn san hô Yamanieh.[33] Aqaba là nơi nhập các hàng hóa từ Iraq trong thập niên 1980 trước khi Chiến tranh Vùng Vịnh nổ ra.[34]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Aqaba http://www.addustour.com/17903/%D8%A7%D9%84%D8%B9%... http://www.alghad.com/articles/610940-%D8%A3%D8%A8... http://www.alghad.com/articles/722736-%D8%A7%D9%83... http://www.alrai.com/article/357602.html http://www.aqabazone.com http://www.aqabazone.com/en/faq-2/ http://www.aqabazone.com/files/ANN%20REP%20ENG.pdf http://www.arabiansupplychain.com/article-76-top-1... http://www.guinnessworldrecords.com/world-records/... http://www.jordantimes.com/news/local/jordan-tappi...